Công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài – kinh nghiệm từ Công ước New York năm 1958 và Luật Mẫu Uncitral
Số liệu thống kê gần đây cho thấy, tỷ lệ không công nhận phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam còn ở mức cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới, ảnh hưởng đến hiệu quả giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Nguyên nhân xuất phát từ việc các tòa án cấp sơ thẩm vẫn còn gặp một số khó khăn trong việc diễn giải các quy định có liên quan của Bộ luật TTDS cũng như Công ước New York năm 1958 (Công ước). Từ đó, dẫn đến việc áp dụng không thống nhất các quy định này trong giải quyết đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài. Việc tòa án không công nhận phán quyết của trọng tài nước ngoài với tỷ lệ cao mà không có cơ sở thuyết phục có thể gián tiếp khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vi phạm hợp đồng, vi phạm thỏa thuận ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp, tổ chức cá nhân của Việt Nam trong hoạt động kinh doanh, từ đó làm suy giảm uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, việc Việt Nam không công nhận phán quyết của trọng tài nước ngoài phù hợp với Công ước còn có thể dẫn đến việc phía nước ngoài kiện Chính phủ Việt Nam theo các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư cũng như các điều ước quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên, gây ra hệ lụy phức tạp, tốn kém về nguồn lực xử lý.
Quy định của Công ước New York năm 1958, Luật Mẫu về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài
Thể thức trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp mà trong đó các bên thống nhất đưa tranh chấp ra một bên thứ ba là bên sẽ đưa ra quyết định chung thẩm và có tính ràng buộc thay vì đưa ra tòa án. Phán quyết trọng tài có 03 (ba) đặc điểm: (i) có sự đồng thuận dựa trên sự thỏa thuận của các bên; (ii) là biện pháp giải quyết tranh chấp có tính chung thẩm (có hiệu lực pháp luật ngay) và ràng buộc các bên; (iii) là phương thức thay thế tố tụng tại tòa án.
Khác với quyết định của trọng tài là quyết định được ban hành trong quá trình giải quyết tranh chấp, phán quyết của trọng tài là quyết định giải quyết toàn bộ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài. Những phán quyết này sẽ được xem xét để công nhận và cho thi hành tại một quốc gia khác không phải là quốc gia nơi phán quyết được tuyên.
- 1. Quy định của Công ước New York năm 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài
Với mong muốn thiết lập một cơ chế công nhận và cho thi hành đơn giản, hiệu quả, Công ước tiếp cận trên tinh thần ủng hộ cho việc thi hành theo cơ chế chọn – bỏ, điều đó có nghĩa là, về cơ bản các phán quyết của trọng tài nước ngoài sẽ được công nhận và cho thi hành tại các quốc gia là thành viên của Công ước, chỉ trừ một số trường hợp hữu hạn mà bị từ chối. Các phán quyết trọng tài nước ngoài sẽ được thi hành như những quyết định của tòa án địa phương và hệ thống các cơ quan tư pháp của Nhà nước có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế để thi hành phán quyết.
Công ước xác định những nguyên tắc chính trong quá trình công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài như sau:
– Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận giá trị hiệu lực của một thỏa thuận trọng tài bằng văn bản, đồng thời đảm bảo các tòa án của họ sẽ từ chối thụ lý vụ kiện trong trường hợp các bên tranh chấp đã có một thỏa thuận trọng tài;
– Các quốc gia thành viên bảo đảm việc công nhận và cho thi hành trên lãnh thổ của quốc gia mình một phán quyết của trọng tài đã được tuyên trên lãnh thổ quốc gia thành viên khác;
– Các quốc gia thành viên không được có sự phân biệt đối xử giữa công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài so với phán quyết của trọng tài trong nước;[4]
– Công ước không loại trừ quyền được áp dụng các quy định có lợi hơn đối với việc công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài được quy định trong các điều ước quốc tế khác hoặc pháp luật quốc gia.
Bên cạnh đó, Công ước cũng đề ra một số trường hợp mà căn cứ theo đó, quốc gia thành viên có thể từ chối công nhận và và cho thi hành phán quyết của trọng tài của quốc gia thành viên khác, bao gồm:
– Nhóm 1: Các trường hợp mà người phải thi hành có nghĩa vụ chứng minh: (i) các bên không có năng lực thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu; (ii) vi phạm thủ tục thông báo hoặc không thể trình bày vụ việc; (iii) phán quyết vượt khỏi yêu cầu khởi kiện; (iv) vi phạm thủ tục tố tụng trọng tài; (v) phán quyết chưa có hiệu lực pháp luật hoặc bị đình chỉ, bị hủy theo pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước nơi phán quyết được tuyên.
Theo đó, bên phải thi hành có nghĩa vụ chứng minh các bên trong một thỏa thuận trọng tài, theo pháp luật của mỗi bên không có đủ năng lực pháp luật để tham gia thỏa thuận hoặc thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp luật theo pháp luật các bên chịu sự điều chỉnh hoặc theo pháp luật của nước nơi phán quyết được tuyên.
Một trường hợp khác, bên phải thi hành phán quyết phải chứng minh được rằng mình không được thông báo một cách phù hợp về việc chỉ định trọng tài viên hoặc về tố tụng trọng tài hoặc do một nguyên nhân khác không thể trình bày vụ việc của mình.
Bên cạnh đó, liên quan đến trường hợp vượt quá yêu cầu khởi kiện, người phải thi hành phải chứng minh phán quyết giải quyết tranh chấp không được dự liệu trong các điều khoản của đơn yêu cầu đưa ra trọng tài giải quyết hay nằm ngoài điều khoản đó hoặc phán quyết trọng tài bao gồm các quyết định nằm ngoài phạm vi yêu cầu giải quyết bằng trọng tài. Tuy nhiên, trong trường hợp các quyết định nằm ngoài đó có thể tách rời với các quyết định nằm trong phạm vi yêu cầu thì phần quyết định thuộc phạm vi yêu cầu đó vẫn có thể được xem xét công nhận và cho thi hành.
Vi phạm thủ tục tố tụng trọng tài: Đây là trường hợp mà quá trình tiến hành tố tụng hoặc thành phần tham gia tố tụng trọng tài vi phạm sự thỏa thuận của các bên hoặc pháp luật nơi tiến hành tố tụng (nếu không có thỏa thuận). Phán quyết chưa có hiệu lực pháp luật hoặc bị đình chỉ, bị hủy theo pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước nơi phán quyết được tuyên cũng là một căn cứ từ chối công nhận và cho thi hành theo các điều khoản của Công ước.
– Nhóm 2: Các trường hợp tòa án tự xem xét để ra quyết định từ chối công nhận và cho thi hành: (i) đối tượng tranh chấp theo pháp luật của nước có yêu cầu công nhận và cho thi hành không được giải quyết bằng trọng tài; (ii) việc công nhận và cho thi hành là trái với trật tự công cộng của nơi công nhận và cho thi hành phán quyết.
Như vậy, Công ước quy định rất rõ các nguyên tắc và các căn cứ từ chối công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi để các quốc gia thành viên thực thi Công ước một cách có hiệu quả nhất.
- Quy định của Luật Mẫu về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài
Khác với Công ước chỉ quy định về hai hoạt động là thi hành thỏa thuận trọng tài và công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài, các quy định của Luật Mẫu bao gồm toàn bộ quá trình tố tụng trọng tài. Bên cạnh đó, Luật Mẫu không có tính chất như một điều ước quốc tế, không buộc các quốc gia phải tuân thủ tuyệt đối. Luật Mẫu chỉ mang tính chất khuyến nghị và mềm dẻo, linh hoạt để các quốc gia vận dụng và chuyển hóa vào hệ thống pháp luật trong nước, đảm bảo tối đa sự hài hòa pháp luật về trọng tài của các quốc gia.
Hiện nay, Luật Mẫu ngày càng khẳng định vị trí của mình khi nhận được sự đồng thuận của nhiều quốc gia đối với các vấn đề quan trọng trong thực tiễn tố tụng trọng tài. Chỉ tính riêng khu vực ASEAN, đã có tới 7/10 quốc gia thành viên áp dụng Luật Mẫu. Đặc biệt, trong những năm gần đây, nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã đưa Luật Mẫu trở thành pháp luật điều chỉnh hoạt động trọng tài ở nước mình.
Tính chất quốc tế của trọng tài theo quy định của Luật Mẫu không được xác định trên cơ sở quốc tịch của trọng tài viên. Theo đó, tính quốc tế trước tiên phụ thuộc vào địa điểm kinh doanh của các bên trong thỏa thuận trọng tài. Nếu địa điểm kinh doanh của các bên tại các quốc gia khác nhau, thì trọng tài được xem là “quốc tế”. Trong trường hợp địa điểm kinh doanh của các bên không cùng ở tại một quốc gia, các yếu tố khác sẽ được xem xét để xác định địa điểm tố tụng trọng tài, bất kỳ địa điểm nào mà một phần đáng kể của các nghĩa vụ trong quan hệ thương mại được thực hiện, … Bên cạnh đó, yếu tố quốc tế của trọng tài còn có thể được xác định theo thỏa thuận của các bên.
Công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài được quy định tại Điều 35 và các căn cứ từ chối công nhận và cho thi hành quy định tại Điều 36 Luật Mẫu. Có thể thấy tiêu đề của chương VII, Điều 35 và Điều 36 đều không nhắc tới “phán quyết trọng tài nước ngoài” như Công ước. Nội dung của Điều 35 cũng khẳng định việc công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài là “không phụ thuộc vào quốc gia phán quyết được tuyên”. Việc áp dụng chung thủ tục công nhận và cho thi hành với tất cả các phán quyết không phân biệt nơi phán quyết được tuyên để tạo ra cơ chế công bằng cho cả phán quyết trọng tài trong nước và phán quyết trọng tài quốc tế. Như vậy, có thể thấy, phạm vi áp dụng áp dụng của Luật Mẫu là rộng hơn Công ước bởi lẽ việc công nhận và cho thi hành không chỉ bị giới hạn trong phạm vi phán quyết “nước ngoài”.
Luật Mẫu không quy định về thời hạn công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài. Theo đó, người được thi hành phán quyết trọng tài tùy theo điều kiện và khả năng của bản thân có thể nộp đơn đề nghị tòa án nơi phán quyết được thi hành bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, ở các quốc gia thành viên của Công ước nơi mà phán quyết sẽ được công nhận và cho thi hành hầu hết đều quy định về thời hạn để người được thi hành nộp đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành.
Luật Mẫu còn bổ sung một quy định về việc tòa án nơi công nhận hoặc thi hành có thể hoãn việc ra quyết định nếu có đơn yêu cầu hủy hoặc đình chỉ phán quyết trọng tài tại quốc gia nơi phán quyết được tuyên và khi đó tòa án, theo yêu cầu của bên đề nghị công nhận và cho thi hành phán quyết yêu cầu bên phải thi hành nộp phí bảo đảm. Đây là quy định nhằm mục đích đảm bảo và cân bằng quyền lợi của các bên trong tố tụng trọng tài ở giai đoạn công nhận và cho thi hành. Tuy nhiên, việc có hoãn ra quyết định hay không là quyền của tòa án nơi công nhận và cho thi hành.
Các quyết định về biện pháp tạm thời cũng sẽ được công nhận và cho thi hành theo Luật Mẫu. Các quy định về công nhận và cho thi hành quyết định về biện pháp tạm thời không bị giới hạn bởi việc hội đồng trọng tài ban hành biện pháp tạm thời tại nơi tiến hành tố tụng trọng tài. Tòa án nơi quốc gia có yêu cầu công nhận hoặc cho thi hành có thể buộc bên đưa ra yêu cầu thực hiện bảo đảm phù hợp nếu xét thấy là hành động cần thiết để bảo vệ quyền của bên thứ ba. Tòa án cũng sẽ không xem xét lại nội dung của biện pháp bảo đảm mà chỉ xem xét các căn cứ để từ chối công nhận và cho thi hành.
- 2. Quy định của pháp luật Việt Nam về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài
Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài nước ngoài là trọng tài được thành lập trên cơ sở quy định của pháp luật nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để tiến hành giải quyết tranh chấp có thể phát sinh ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam. Phán quyết của trọng tài nước ngoài là phán quyết do trọng tài nước ngoài tuyên để giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn, tức là không phụ thuộc vào địa điểm giải quyết tranh chấp. Luật TTTM năm 2010 không quy định rõ địa điểm tố tụng trọng tài có ảnh hưởng như thế nào đến tính chất “nước ngoài” của trọng tài và căn cứ nào để xác định trọng tài được thành lập theo pháp luật nước ngoài. Đối với trọng tài quy chế, việc xác định trọng tài đối với vụ việc cụ thể có thể được xác định dễ dàng hơn. Tuy nhiên, đối với trọng tài vụ việc mà tố tụng trọng tài hoàn toàn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên thì việc xác định trọng tài được thành lập theo nước nào có thể gặp không ít khó khăn, nhất là khi yếu tố địa điểm tố tụng trọng tài không được nhắc đến. Với quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, việc xác định một phán quyết trọng tài có phải là phán quyết trọng tài nước ngoài hay không sẽ là rất khó khăn.
Hiện nay, thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài được quy định trong phần thứ bảy Bộ luật TTDS năm 2015. Để phân biệt giữa phán quyết trọng tài (quyết định giải quyết nội dung vụ việc) và các quyết định khác của trọng tài (về trình tự tố tụng), Bộ luật TTDS năm 2015 đã sử dụng từ “phán quyết” thay cho “quyết định”, đồng thời dẫn chiếu đến các khái niệm đã được định nghĩa trong pháp luật trọng tài. Bộ luật TTDS năm 2015 cũng đã bổ sung trở lại nghĩa vụ chứng minh của bên phải thi hành trong các trường hợp không công nhận theo quy định của Công Ước. Trình tự thủ tục công nhận và cho thi hành có những sửa đổi theo hướng rút ngắn thời hạn, giảm bớt khâu trung gian để đẩy mạnh tiến trình công nhận và cho thi hành.
Trên cơ sở Công ước, khi gia nhập Việt Nam đã giới hạn phạm vi áp dụng của Công ước tại Quyết định số 453/QĐ-CTN ngày 28/7/1995 của Chủ tịch nước về việc tham gia Công ước New York năm 1958 (Quyết định số 453). Điều 2 Quyết định số 453 đưa ra 03 (ba) điều bảo lưu cơ bản của Việt Nam:
(1) Công ước chỉ áp dụng đối với việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài được tuyên tại lãnh thổ của các quốc gia thành viên của Công ước; đối với quyết định trọng tài nước ngoài được tuyên tại lãnh thổ quốc gia chưa ký kết hoặc tham gia Công ước, Công ước áp dụng tại Việt Nam theo nguyên tắc có đi có lại.
(2) Chỉ áp dụng Công ước đối với tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật thương mại.
(3) Mọi sự giải thích Công ước trước tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của Việt Nam phải tuân thủ các quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.
Hiện nay, khoản 3 Điều 2 Bộ luật TTDS năm 2015 quy định: “Bộ luật TTDS được áp dụng đối với việc giải quyết việc dân sự có yếu tố nước ngoài; trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó”.
Theo quy định của Điều 424 Bộ luật TTDS năm 2015, Tòa án Việt Nam xem xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài theo hai nguyên tắc cơ bản: trên cơ sở điều ước quốc tế và trên nguyên tắc có đi có lại.
Bộ luật TTDS năm 2015 đã nội luật hóa Điều V của Công ước về các trường hợp từ chối công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam (Điều 459). Theo đó, căn cứ để tòa án không công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài gồm hai nhóm sau:
– Nhóm 1: Bên có nghĩa vụ phải thi hành cung cấp chứng cứ cho tòa án chứng minh rằng: (i) các bên ký thỏa thuận trọng tài không có năng lực để ký kết theo pháp luật mỗi bên; (ii) thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý; (iii) bên phải thi hành không được thông báo kịp thời và hợp thức về việc giải quyết vụ tranh chấp hoặc không thể thực hiện được quyền tố tụng của mình (với lý do chính đáng); (iv) phán quyết được tuyên không được các bên yêu cầu giải quyết hoặc vượt quá yêu cầu của các bên; (v) thành phần, thủ tục giải quyết tranh chấp không phù hợp; (vi) phán quyết chưa có hiệu lực bắt buộc đối với các bên; (vii) phán quyết bị cơ quan có thẩm quyền của nước nơi phán quyết đã được tuyên hoặc của nước có pháp luật đã được áp dụng hủy bỏ hoặc đình chỉ thi hành.
– Nhóm 2: Khi tòa án Việt Nam xét thấy: (i) vụ tranh chấp không được giải quyết theo thể thức trọng tài theo pháp luật Việt Nam; và (ii) việc công nhận và cho thi hành phán quyết tại Việt Nam là trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Khi xem xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành, Hội đồng trọng tài không được xét xử lại tranh chấp đã được trọng tài nước ngoài ra phán quyết mà chỉ được kiểm tra, đối chiếu phán quyết của trọng tài nước ngoài, giấy tờ, tài liệu kèm theo đơn yêu cầu để làm cơ sở cho việc ra quyết định công nhận hoặc không công nhận phán quyết đó. Hội đồng xét đơn yêu cầu phải đánh giá chứng cứ do các bên xuất trình một cách cẩn trọng, kỹ lưỡng và vô tư. Khi một phán quyết trọng tài nước ngoài được tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam thì phán quyết đó sẽ có “hiệu lực pháp luật” như quyết định của tòa án Việt Nam đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, khi tòa án được yêu cầu công nhận phán quyết trọng tài, tòa án không chỉ được yêu cầu công nhận hiệu lực pháp lý của phán quyết mà còn phải đảm bảo phán quyết đó được thi hành. Điều 427 Bộ luật TTDS năm 2015 quy định, phán quyết được công nhận sẽ được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự và chỉ được thi hành sau khi có quyết định của tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài có hiệu lực pháp luật.
Do vậy, công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài là một thủ tục tố tụng đặc biệt do tòa án tiến hành nhằm xem xét để công nhận tính hiệu lực của phán định trọng tài nước ngoài trên phạm vi lãnh thổ của Việt Nam.
Tuy nhiên, ranh giới giữa việc xem xét các yêu cầu để ra quyết định có công nhận phán quyết trọng tài hay không với việc xem xét nội dung của phán quyết trong nhiều trường hợp khó phân biệt rõ ràng như căn cứ liên quan đến năng lực của các bên, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài hoặc vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Theo thống kê số liệu giai đoạn báo cáo từ ngày 01/02/2012 đến ngày 30/9/2019 có 33 yêu cầu công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài không được tòa án thụ lý giải quyết; 84 vụ việc thu thập được các quyết định giải quyết và đưa ra kết quả giải quyết tập trung ở các tòa án Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Long An trong đó 39 vụ việc được công nhận và cho thi hành, 33 vụ việc không được công nhận, 12 vụ việc đình chỉ giải quyết.
Một nghiên cứu chỉ ra rằng, việc tòa án không công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam thường dựa vào các lý do như: (i) các bên tham gia thỏa thuận trọng tài không có năng lực để ký thỏa thuận; (ii) cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ thi hành không được thông báo kịp thời các thông tin hoặc không thể tham gia thực hiện quyền tố tụng của mình với lý do chính đáng; (iii) việc công nhận và cho thi hành là trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Những bất cập nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, chưa có văn bản hướng dẫn thống nhất về xác định người phải thi hành, nguyên tắc có đi có lại, căn cứ hủy phán quyết và từ chối công nhận do vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, cách hiểu và áp dụng Công ước của các tòa án không được thống nhất (có tòa án sẽ đánh giá quyết định của trọng tài nước ngoài so với quy định của Công ước và Bộ luật TTDS; có toà án lại không đề cập gì đến Công ước hoặc có tòa án chỉ nhắc đến tên Công ước mà không có phân tích gì thêm).
Thứ ba, công tác tổng kết, rà soát, đánh giá, đôn đốc việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài cũng như thực hiện Công ước chưa được quan tâm đúng mức.
- Khả năng áp dụng Luật Mẫu trong thủ tục công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam
Mặc dù Công ước đã có hiệu lực tại Việt Nam trong 25 năm, tỉ lệ công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài ở Việt Nam vẫn ở mức thấp, vì vậy, đặt ra câu hỏi nếu áp dụng Luật Mẫu vào Việt Nam có làm tăng cường số lượng các vụ việc mà tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài hay không?
Có thể thấy rằng, Luật Mẫu thể hiện các thực tiễn quốc tế tốt nhất về trọng tài, dựa trên ý tưởng chính là hạn chế sự can thiệp tư pháp của tòa án vào tố tụng trọng tài, từ việc tiến hành thủ tục tố tụng trọng tài đến việc phản đối phán quyết cuối cùng. Việc áp dụng các quy định của Luật Mẫu sẽ tăng cường sự hấp dẫn của các quốc gia để các bên đặc biệt là bên nước ngoài lựa chọn làm địa điểm tố tụng trọng tài, thay vì áp dụng các thủ tục tố tụng trọng tài trong nước có tính cục bộ và địa phương, các bên có thể sẽ dễ chấp nhận khuôn khổ quốc tế hơn.
Xét về điểm thuận lợi, Đảng và Nhà nước ta đã nhiều lần nhấn mạnh ưu tiên cho phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Điều này tạo tiền đề quan trọng cho những cải cách để pháp luật về trọng tài của Việt Nam tiến gần hơn các quy định của quốc tế. Bên cạnh đó, với việc cùng xây dựng trên nền tảng Công ước các quy định về hủy và từ chối công nhận phán quyết trọng tài có nhiều điểm tương đồng. Do đó, việc áp dụng Luật Mẫu sẽ làm tăng khả năng thực thi hiệu quả của Công ước. Với mục tiêu hài hòa và hoàn thiện pháp luật quốc gia, Luật Mẫu phản ánh sự đồng thuận quốc tế các vấn đề cơ bản nhất của pháp luật về thủ tục tố tụng trọng tài, đây là cơ chế mềm dẻo để các quốc gia khi áp dụng có thể thay đổi phù hợp.
Với việc áp dụng toàn bộ nội dung của Luật Mẫu vào Việt Nam sẽ không chỉ “quốc tế hóa” các quy định của pháp luật trọng tài, tạo niềm tin cho các bên trong việc lựa chọn trọng tài làm phương thức giải quyết tranh chấp mà còn hỗ trợ phát triển nền kinh tế thông qua thu hút đầu tư và phát triển dịch vụ pháp lý giải quyết tranh chấp. Từ đó, tăng vị thế của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc lựa chọn địa điểm tố tụng trọng tài.
Mặc dù có nhiều thuận lợi, đứng trước bối cảnh kinh tế – xã hội của Việt Nam, việc áp dụng Luật Mẫu cũng gặp nhiều khó khăn. Việc sửa đổi quy định của pháp luật về trọng tài trước mắt không được các nhà lập pháp ủng hộ kể cả Luật TTTM năm 2010 hay Bộ luật TTDS năm 2015. Bên cạnh đó, Luật Mẫu được quy định khá linh hoạt nhưng việc áp dụng phải đảm bảo được nội dung và mục đích của nó. Việc thay đổi từ ngữ, bổ sung thêm các điều khoản có thể dẫn đến thay đổi về ý nghĩa và nội dung của các quy định dẫn đến mục tiêu áp dụng Luật Mẫu như một tiêu chuẩn quốc tế là khó thực hiện được. Hơn nữa, nguồn lực để thực thi các quy định mới, kể cả chuyên môn hóa đội ngũ thẩm phán thực hiện nhiệm vụ công nhận và cho thi hành còn thiếu, dẫn đến khó khăn trong công tác thực thi.
Mặc dù có nhiều khó khăn trong việc chính thức áp dụng Luật Mẫu tại Việt Nam nhưng những vấn đề này sẽ được khắc phục trong quá trình xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Việc xây dựng Luật TTTM năm 2010 với các quy định rất gần với Luật Mẫu thay thế cho Pháp lệnh trọng tài năm 2003 là một minh chứng./.